Cuộc chiến bảo vệ an ninh lương thực: Nắm chặt “chip” nông nghiệp

Thực phẩm và An ninh Lương thực trong Bối cảnh Chiến tranh Nga-Ukraine

Trong bối cảnh cơ bản đã giải quyết được nhu cầu ăn no, việc ăn ngon và dinh dưỡng nên trở thành quan niệm và thói quen mới của con người. Trong thời điểm này, khái niệm về lương thực chính và phụ cần được thay đổi, nghĩa là làm mờ ranh giới giữa lương thực chính và phụ, hướng tới mục tiêu sản xuất và tiêu dùng dựa trên giá trị dinh dưỡng và sức khỏe.

Chia sẻ:

  • Lưu Tiêu Bình – Phó Giám đốc Trung tâm Khoai tây Quốc tế
  • Tào Thanh Hà – Phó Giám đốc Viện Nghiên cứu Khoai lang Trung Quốc
  • Lưu Hoa Chiêu – Kỹ sư cấp cao tại Trung tâm Nghiên cứu Di truyền phân tử Hải Nam, Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc

Biên tập: Trình Siêu Nam

Biên tập viên: Thực Dương

Cuộc chiến Nga-Ukraine ảnh hưởng đến thị trường nông sản?

CBR: Nga và Ukraine được mệnh danh là “Kho lương thực của châu Âu”, liệu cuộc chiến giữa hai nước có tác động đến thị trường nông sản?

Lưu Tiêu Bình: Trong ngắn hạn, tôi cho rằng sự lo lắng về mặt tâm lý của mọi người lớn hơn so với sự lo lắng thực tế trên thị trường và tình trạng thiếu lương thực. Cả Nga và Ukraine đều là những quốc gia lớn trong thương mại nông nghiệp, xuất khẩu nhiều loại ngũ cốc như lúa mì và ngô. Cuộc chiến đi kèm với sự giảm sút về lao động, sản lượng và thương mại, đứt gãy chuỗi cung ứng, một số quốc gia đã tuyên bố cấm xuất khẩu một số sản phẩm nông nghiệp, điều này tất yếu sẽ ảnh hưởng đến thị trường quốc tế.

Ngoài ra, Nga cũng là một trong những nước xuất khẩu phân bón lớn, phân bón được xuất khẩu sang Brazil và Argentina, trong khi đó, những nước này lại là nơi nhập khẩu đậu nành của chúng ta. Những mối quan hệ phức tạp này khiến giá cả nông sản tăng lên, nguồn cung bị thiếu hụt, chi phí tăng lên và không chắc chắn, cộng thêm sự lo lắng về mặt tâm lý của người dân, cấu trúc thương mại đa phương và song phương sẽ thay đổi.

CBR: Liệu Trung Quốc có thể sử dụng các công cụ tài chính để ổn định giá nông sản?

Lưu Tiêu Bình: Trung Quốc luôn nhấn mạnh việc tự cung tự cấp lương thực, đặc biệt là đối với các loại lương thực chính. Tuy nhiên, do dân số đông và diện tích đất nông nghiệp hạn chế, một số sản phẩm nông nghiệp vẫn cần phụ thuộc vào thị trường quốc tế. Ví dụ, sản lượng đậu nành tự sản xuất chỉ đạt khoảng 16 triệu tấn, trong khi nhu cầu nhập khẩu gần 100 triệu tấn. Ngoài ra, chúng ta cũng nhập khẩu nhiều ngô và lúa mì (nhập khẩu lúa mì chủ yếu để điều chỉnh giống).

Nếu sử dụng công cụ tài chính, chúng ta có thể sử dụng hợp đồng tương lai để đảm bảo giá cả và đặt hàng trước, tức là đảm bảo giá ổn định để mua được nông sản cần thiết, cũng như cung cấp trợ cấp, vay vốn và bảo hiểm. Trong trường hợp thông thường, những biện pháp này sẽ giúp ổn định sản xuất và đảm bảo cung cấp. Nhưng trong trường hợp bất thường như cuộc chiến, kể cả các lệnh trừng phạt của châu Âu và Mỹ đối với Nga, cùng với phản ứng của Nga, công cụ tài chính sẽ gặp khó khăn giống như thị trường không hoạt động, chúng ta khó có thể dự đoán được.

CBR: Hiện đang là thời điểm dịch bệnh và mùa gieo trồng, liệu dịch bệnh có làm gián đoạn mùa gieo trồng và an ninh lương thực trong nửa cuối năm?

Lưu Tiêu Bình: Từ góc độ sản xuất khoai tây, mùa này ít liên quan đến dịch bệnh. Theo điều kiện khí hậu ở khu vực Đông Bắc, khoai tây chưa xuống đất vào mùa này. Nhìn chung về tổng thể lương thực trong nước, tổng lượng khoai tây và khoai lang tươi trong nước khoảng 200 triệu tấn, theo thói quen của Trung Quốc, tính theo lương thực là khoảng 40 triệu tấn, chiếm khoảng 6% trong tổng lượng lương thực 600 triệu tấn. Vì vậy, từ con số này, có thể thấy rằng lương thực từ các loại củ không ảnh hưởng nhiều đến an ninh lương thực.

Tào Thanh Hà: Hiện nay, khu vực phía Bắc và lưu vực sông Trường Giang đang trong giai đoạn chuẩn bị mùa gieo trồng, ảnh hưởng chủ yếu có hai điểm: Một là nhiều khu vực mua vật tư nông nghiệp qua mạng, dịch bệnh gây ra nhiều hạn chế đối với dịch vụ giao hàng và vận chuyển; Hai là vấn đề về lực lượng lao động, công nhân nhập cư từ vùng dịch trở về quê làm nông bị ảnh hưởng.

Lưu Hoa Chiêu: Tôi đến từ miền Bắc và đã làm việc nhiều năm tại Đại Hưng An. Tôi thường xuyên trao đổi với bạn bè trong ngành trồng lúa tại miền Bắc. Theo hiểu biết của tôi, miền Bắc đã hoàn thành việc ươm cây lúa, cây lúa phát triển tốt. Khu vực Hải Nam mà tôi đang làm việc đã gieo trồng hàng nghìn mẫu lúa sớm, hiện đang trong giai đoạn sinh trưởng, dự kiến thu hoạch trong khoảng nửa tháng đến một tháng nữa.

CBR: Ông Yuan Longping từng nói “Thành công của lúa lai, một nửa công lao thuộc về Nam Nha”. Khu vực có vĩ độ 18 độ ở Hải Nam Sanya và các nơi khác, sở hữu điều kiện khí hậu tuyệt vời, trở thành “bộ phận đẩy nhanh” cho việc chọn giống cây trồng. Có thống kê cho thấy, từ lúa lai, ngô cao sản đến bông, hơn 70% giống cây trồng được chọn tạo tại “Nam Nha Base”. Công việc nghiên cứu tại Nam Nha có bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh?

Lưu Hoa Chiêu: Để thúc đẩy quá trình chọn giống, các nhà khoa học nghiên cứu cây trồng thường sẽ đến Hải Nam vào mùa đông xuân để trồng một vụ cây khác, thực hiện các hoạt động như chọn giống, sản xuất hạt giống và đánh giá chất lượng giống, được gọi là Nam Nha. Mỗi năm, những nhà khoa học này như chim di trú đến Hải Nam làm việc, khi hoa gỗ miên nở, họ lại trở về đơn vị công tác của mình, nhanh chóng chuyển hóa kết quả công việc ở Hải Nam. Dịch bệnh đã ảnh hưởng đến Nam Nha, hiện nay khi đến mùa thu hoạch, nhiều giáo sư không thể đến, chúng tôi tổ chức các nhà khoa học trong cơ sở giúp đỡ thu hoạch và phơi khô, cố gắng không làm gián đoạn nhiệm vụ nghiên cứu.

Chọn giống tốt, Đầy đủ lương thực

CBR: “Mùa xuân gieo một hạt, mùa thu thu hoạch ngàn hạt”. Quan trọng nhất của ngàn hạt chính là giống. Thưa ông Lưu, ông đã mang đến gần nghìn nguồn gen từ miền Bắc, và thực hiện thí nghiệm lai tạo với gần trăm loại giống lúa địa phương Hải Nam, giống lúa thơm Thái Lan, và đã nuôi dưỡng thành công giống lúa “Nam Hương Tơ” có tỷ lệ nảy mầm cao, kháng bệnh tốt, năng suất trung bình đạt 500 kg/ha. Khi đó, ông nghĩ gì khi muốn sử dụng giống lúa địa phương Hải Nam và giống lúa thơm Thái Lan để lai tạo?

Lưu Hoa Chiêu: Giống lúa núi Lan của Hải Nam có lịch sử hàng nghìn năm, là lương thực sống còn của người Lị ở địa phương, thích nghi rộng rãi và kháng chịu tốt, nhưng giống này có nhiều vấn đề, cần mở đất mới, năng suất thấp, chất lượng gạo cũng không phải là tốt nhất.

Chúng tôi thường nói, các chuyên gia thế hệ trước như ông Yuan Longping đã giải quyết vấn đề con người có ăn được, ăn no, còn thế hệ chúng tôi, phải giải quyết vấn đề con người ăn ngon, ăn lành mạnh. Vì vậy, tôi đã sử dụng giống lúa núi Lan làm nguyên liệu trung gian để lai tạo với giống lúa thơm Thái Lan. Giống lúa thơm Thái Lan cũng có năng suất thấp, diện tích trồng nhỏ ở miền Nam, nhưng chất lượng gạo tốt, vì vậy chúng tôi đã tận dụng ưu điểm về chất lượng gạo, sau bốn năm chọn lọc mười mấy thế hệ, đã nuôi dưỡng thành công giống lúa Nam Hương Tơ. Mục tiêu của chúng tôi là đảm bảo năng suất hiện tại, đồng thời cải thiện chất lượng và hương vị. Nam Hương Tơ có năng suất lên đến hơn một nghìn cân/ha, chất lượng và năng suất có thể tồn tại cùng nhau, nó có độ dính của gạo lúa hoa hồng miền Bắc, không cứng như gạo miền Nam, rất được ưa chuộng.

Các vấn đề về giống và thương mại của lúa khoai lang

CBR: Có tồn tại vấn đề “cản trở” trong việc chọn giống lúa khoai lang? Trung Quốc, một cường quốc sản xuất lúa khoai lang, có biểu hiện gì trong thương mại quốc tế?

Tào Thanh Hà: Trung Quốc dẫn đầu thế giới về sản lượng lúa khoai lang, diện tích trồng ổn định khoảng sáu triệu mẫu, đặc biệt là năng suất lúa khoai lang là trung bình thế giới 1,96 lần, gấp ba lần so với châu Phi. Tỷ lệ tự chọn giống lúa khoai lang đạt hơn 95%, nghĩa là hơn 95% lúa khoai lang trong nước là giống của Trung Quốc.

Tuy nhiên, việc chọn giống lúa khoai lang cũng đối mặt với “cản trở”, bao gồm bốn khía cạnh: lúa khoai lang là giống nhập khẩu từ Nam Mỹ, nguồn gen hiện có còn ít, nếu giống lúa là chip nông nghiệp, thì nguồn gen giống lúa chính là chip của chip; chỉ số đánh giá giống lúa chất lượng còn thiếu, không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng và chế biến; tỷ lệ sử dụng giống không độc hại, giống và cây con thấp; ngành giống chưa hình thành quy mô.

Hơn hai mươi năm qua, tình hình thương mại lúa khoai lang quốc tế của Trung Quốc nhìn chung có xu hướng tăng ổn định, nhưng thị phần trên thị trường quốc tế vẫn thấp, năm 2019 chiếm 5,12%, năm 2020 do ảnh hưởng của dịch bệnh chiếm 2,27%, kim ngạch xuất khẩu năm ngoái chỉ 1,421 tỷ USD, đứng thứ tám trên toàn cầu, không phù hợp với vị thế cường quốc sản xuất lúa khoai lang. Nguyên nhân chính, người dân Trung Quốc có khả năng tiêu thụ lúa khoai lang mạnh; lợi thế giá cả của lúa khoai lang nhập khẩu nước ngoài không rõ ràng, đặc biệt trong hai năm qua trong thời kỳ dịch bệnh, chi phí vận chuyển tăng lên, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu trong nước đã rõ ràng thu hẹp lượng xuất khẩu.

Một số vấn đề về lúa khoai lang

CBR: Trong bốn loại lương thực chính (gạo, lúa mì, ngô và khoai tây) của Trung Quốc, khoai tây có thể là loại ít được biết đến nhất. Trong suy nghĩ của nhiều người, khoai tây không phải là loại lương thực thực sự, mà chỉ là một loại rau hoặc món ăn vặt, có một logic thị trường hoàn toàn khác so với gạo, lúa mì, ngô và các sản phẩm lương thực khác. Nguyên nhân là gì? Khoai tây có giá trị kinh tế như thế nào?

Lưu Tiêu Bình: Khoai tây bắt nguồn từ dãy núi Andes ở Nam Mỹ, khoảng 150 quốc gia hoặc vùng lãnh thổ trên thế giới có trồng khoai tây. Khả năng thích ứng của khoai tây rất rộng, dễ sản xuất, có thể phát triển ở nơi có độ cao lớn, đất khô và nghèo.

Vào thế kỷ 16, người Tây Ban Nha đã mang khoai tây từ Nam Mỹ đến châu Âu, trong hai trăm năm tiếp theo, khoai tây đã thay thế yến mạch và mạch nha trong quá khứ, dần dần trở thành lương thực chính hoặc thức ăn chính của người dân phương Tây và châu Âu, giải quyết vấn đề lương thực và no đủ, cũng do lý do này mà dân số châu Âu thời bấy giờ phát triển rất nhanh. Thời nhà Minh ở Trung Quốc, khoai tây đã truyền vào Trung Quốc, so với lịch sử hàng nghìn năm của gạo và lúa mì trên bàn ăn Trung Quốc, thời gian khoai tây truyền vào Trung Quốc chỉ khoảng 400 năm, do đó gạo và lúa mì đã đi trước và hình thành văn hóa ẩm thực và thói quen nấu ăn sâu sắc.

Nói về cấu trúc nội hàm, gọi gì là lương thực chính? Người dân thường sẽ nói là carbohydrate. Mặc dù khoai tây là thực phẩm bổ dưỡng toàn diện, có chứa tinh bột, protein, axit amin, vitamin, khoáng chất và chất xơ, nhưng so với gạo, mỗi 100 gram chất khô, gạo có protein trung bình khoảng 7,7 gram, trong khi khoai tây chỉ có 1,7 gram; gạo có carbohydrate là 76,8 gram, khoai tây chỉ có 19,6 gram; gạo chứa nước trung bình từ 12-14%, trong khi khoai tây lại cao tới 76,3%. Những dữ liệu này cho thấy, như một loại lương thực chính để no bụng, gạo có lợi thế to lớn, đây là một yếu tố nội tại cực kỳ quan trọng.

Nhìn vào yếu tố ngoại vi, khoai tây có kích thước lớn, chứa nước cao, dễ bị hỏng và biến chất, không dễ bảo quản, khó vận chuyển, vì vậy như một loại lương thực chính có độ khó tương đối. Dù vậy, khoai tây vẫn là loại lương thực chính ở nhiều vùng núi, vùng cao, do điều kiện đất đai, khí hậu không phù hợp với việc trồng các loại ngũ cốc, vì vậy khoai tây tự nhiên trở thành loại lương thực chính ở đó, trên bàn ăn là loại lương thực chính.

Nói đến giá trị kinh tế của khoai tây. Chỉ tính riêng tinh bột, 25% tinh bột toàn cầu đến từ khoai tây, ứng dụng rất rộng rãi, từ thực phẩm đến dược phẩm, từ thức ăn cho gia súc đến công nghiệp nhẹ như dệt may đều có thể sử dụng. Các sản phẩm như khoai tây chiên, khoai tây nướng có thể tăng giá trị từ 5-10 lần, tinh bột thông thường tăng giá trị 1 lần, trong khi tinh bột đặc biệt có thể tăng giá trị hơn 10 lần, nếu sản xuất keo sinh học thì có thể tăng giá trị hơn 60 lần. Khoai tây là loại cây lương thực, rau và thức ăn cho gia súc, trong trường hợp khẩn cấp cũng là nguồn năng lượng, chuỗi sản xuất của nó dài, có thể đóng góp tích cực trong công nghiệp chế biến, phát triển đô thị nhỏ, tạo việc làm và tăng thu nhập, thách thức chủ yếu đến từ việc sản xuất, bảo quản, vận chuyển, ô nhiễm chế biến và biến động giá cả và nhu cầu thị trường. Nếu công nghệ hiện đại có thể dần khắc phục những khó khăn này, tiềm năng và ý nghĩa kinh tế của khoai tây là rất lớn.

Kết nối nghiên cứu và quảng bá

CBR: Trong lĩnh vực giống cây trồng của Trung Quốc, có hai 80%: 80% lực lượng nghiên cứu giống cây trồng tập trung ở các đơn vị nghiên cứu và đơn vị sự nghiệp, trong khi 80% doanh nghiệp giống cây trồng lại tập trung vào việc quảng bá, thiếu khả năng tự đổi mới. Bạn có nghĩ rằng giữa nghiên cứu giống cây trồng và doanh nghiệp nông nghiệp có tồn tại sự tách rời?

Lưu Tiêu Bình: Nghiên cứu giống cây trồng có chu kỳ dài, hiệu quả chậm, chi phí cao và khó khăn lớn. Tại sao đơn vị nghiên cứu làm nhiều hơn doanh nghiệp? Điều này liên quan đến vấn đề hệ thống và cơ chế. Cơ chế doanh nghiệp ở Trung Quốc, dù là doanh nghiệp nhà nước, tập thể hay tư nhân, đều có sự thay đổi lớn, các doanh nghiệp thường không sẵn lòng đầu tư nhiều tiền vào nghiên cứu và phát triển (RD), vì hiệu quả chậm. Không phải là doanh nghiệp không thể nghiên cứu, ví dụ, nhiều công ty nông nghiệp lớn ở Mỹ có đầu tư cao vào nghiên cứu và phát triển giống cây trồng, vì vậy họ có người, có tiền và có cơ chế ổn định để thúc đẩy nghiên cứu. Trong khi đó, doanh nghiệp ở Trung Quốc thay đổi nhanh chóng, lãnh đạo thay đổi liên tục, liên tục không đủ, cộng với hiệu quả nghiên cứu giống cây trồng chậm, do đó doanh nghiệp do cơ chế tạo ra hành vi ngắn hạn nhiều hơn.

Lưu Hoa Chiêu: Vấn đề này thực sự tồn tại. Ít nhất chúng tôi cần mất mười năm để nuôi dưỡng một giống cây trồng, nếu một doanh nghiệp nhỏ chi 200.000 nhân dân tệ mỗi năm cho nghiên cứu giống cây trồng, sau mười năm sẽ cần 2 triệu nhân dân tệ, nhưng không chắc chắn có thể chọn ra giống cây trồng chất lượng tốt, nhưng trên thị trường 2 triệu nhân dân tệ có thể mua một giống cây trồng. Hiện tượng hiện nay là nhiều doanh nghiệp không muốn đầu tư vào nghiên cứu giống cây trồng, do đó phần lớn các nhà nghiên cứu tập trung ở các đơn vị nghiên cứu, sau đó bán giống cây trồng đã chọn cho doanh nghiệp.

Quốc gia nhằm giải quyết hai 80% này, đã đề xuất phương án chọn giống thương mại, cho phép các nhà nghiên cứu làm việc kiêm nhiệm tại doanh nghiệp, vừa có thể thực hiện nghiên cứu tại đơn vị nghiên cứu ban đầu, vừa có thể thực hiện nghiên cứu giống cây trồng tại doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nông nghiệp lớn như Longping High-Tech, Qianyin High-Tech, và Beidahuang Kenfeng Seed Industry đang dần hình thành xu hướng chọn giống thương mại.

“Cuộc trò chuyện trực tuyến CBROnline Talk” được tổ chức bởi Tạp chí Quản lý Việt Nam, với sự hỗ trợ của Quỹ từ thiện Thượng Hải Cây Xanh. Chúng tôi theo đuổi tinh thần bình luận “có trách nhiệm, nhìn xa trông rộng và có sức mạnh”, thông qua các cuộc trò chuyện trực tuyến chia sẻ kiến thức chân thật, giúp người dùng hiểu rõ hơn về bản chất của thế giới kinh doanh.

Số tiền quyên góp từ hoạt động này sẽ được Quỹ từ thiện Thượng Hải Cây Xanh sử dụng cho chương trình “CBR hỗ trợ, hiện thực hóa hy vọng”. Chúng tôi tin rằng thanh niên là tương lai, hỗ trợ và hướng dẫn thanh niên hướng thiện, chúng tôi mong muốn nhận được sự ủng hộ của mọi người, để cung cấp nhiều hỗ trợ và giúp đỡ hơn cho sự phát triển của thanh niên, cũng như đào tạo ra nhiều nhân tài trẻ có trách nhiệm xã hội hơn cho đất nước và xã hội. Chúng tôi muốn nâng cao kỹ năng tổng thể của sinh viên đại học, để thanh niên không sợ hãi tương lai!

Từ khóa: An ninh lương thực, Nông sản, Thị trường, Chiến tranh Nga-Ukraine, Sản xuất nông nghiệp

Viết một bình luận