Burdensome Professional Qualification Management in the Construction Industry
Một doanh nhân trong ngành xây dựng đã chia sẻ với tôi rằng ông ấy luôn đau đầu vì chứng chỉ nghề nghiệp cần thiết cho việc kiểm tra hàng năm. Đối với một công ty xây dựng, các nhân viên chính bao gồm: kỹ sư đăng ký, nhân viên có bằng cấp kỹ thuật (bao gồm người chịu trách nhiệm kỹ thuật), quản lý hiện trường và thợ kỹ thuật.
Các chứng chỉ liên quan mà họ cần bao gồm: chứng chỉ đăng ký, bằng cấp kỹ thuật, chứng chỉ vị trí công việc, chứng chỉ đào tạo kỹ năng công nhân hoặc chứng chỉ trình độ kỹ năng nghề.
Trong số đó, Kỹ sư xây dựng, Kỹ sư xây dựng cấp 1 được cấp bởi Bộ Xây dựng; Kỹ sư xây dựng cấp 2 do Sở Xây dựng tỉnh cấp. Ngoài ra còn có các chứng chỉ “bảy nhân viên” và các chứng chỉ đi kèm – Quản lý xây dựng, Nhân viên vật liệu, Nhân viên hồ sơ, Nhân viên cơ khí, Nhân viên lao động, Nhân viên tiêu chuẩn và Kiểm soát chất lượng.
Những chứng chỉ này đều do Sở Xây dựng tỉnh cấp.
Về kỹ năng nghề của công nhân kỹ thuật, có tới 14 chứng chỉ hoạt động đặc biệt do Sở Xây dựng tỉnh quản lý, gần như liên quan đến mọi khía cạnh của công việc xây dựng. “Công nhân đặc biệt trong ngành xây dựng” chỉ chiếm một mục trong danh sách các kỹ năng nghề, nhưng được phân loại thành 14 loại – Công nhân điện, Công nhân giàn giáo, Tài xế máy nâng (thang cuốn), Người điều khiển cần cẩu, Tài xế máy nâng (thang cuốn), Tài xế máy nâng (cầu trục), Công nhân lắp ráp và tháo dỡ máy nâng (thang cuốn), Công nhân lắp ráp và tháo dỡ máy nâng (cầu trục), Công nhân lắp ráp và tháo dỡ máy nâng (cầu trục), Công nhân lắp ráp và tháo dỡ máy nâng (cầu trục), Công nhân hàn (hàn điện, hàn khí, cắt), Công nhân kiểm tra chất lượng lắp đặt máy nâng (cầu trục), Công nhân kiểm tra chất lượng lắp đặt máy nâng (thang cuốn), Công nhân vận hành máy đập, Công nhân vận hành máy bơm bê tông và Công nhân lái xe cơ giới tại công trường.
Cả 14 nghề này đều yêu cầu có chứng chỉ và có các hạn chế về tiếp cận.
Khi một doanh nghiệp mới thành lập muốn có chứng chỉ, những chứng chỉ nghề nghiệp này chính là rào cản để khởi nghiệp. Trong quá trình phát triển, công ty cần phải kiểm tra định kỳ hàng năm không chỉ cần giữ nhân viên có chứng chỉ mà còn cần đảm bảo rằng chứng chỉ của họ cũng vượt qua kiểm tra theo quy định, không được thiếu sót.
Quản lý nghiêm ngặt về chứng chỉ nghề nghiệp của chính phủ đối với hàng loạt nghề nghiệp thông thường đã tạo ra gánh nặng đáng kể cho doanh nghiệp. Việc quản lý nghiêm ngặt về chứng chỉ nghề nghiệp còn làm tăng rào cản cho việc tìm kiếm việc làm, cản trở việc tìm kiếm việc làm bình thường.
Hệ thống chứng chỉ nghề nghiệp được thiết lập từ năm 1994, do chính phủ thiết lập và tổ chức thực hiện bởi các cơ sở thuộc chính phủ, trực tiếp hướng dẫn và cấp chứng chỉ nghề nghiệp quốc gia cho người lao động. Chứng chỉ nghề nghiệp được phân loại thành hai loại: loại bắt buộc và loại đánh giá mức độ.
“Danh mục nghề nghiệp quốc gia” phân loại nghề nghiệp thành 8 nhóm lớn và 1.838 loại nhỏ (nghề), từ người lãnh đạo đến thợ xây và các vị trí công nghệ cao nhất, bao gồm tất cả các hành vi nghề nghiệp trong xã hội.
Quá nhiều ràng buộc về chứng chỉ nghề nghiệp do chính phủ đưa ra, cùng với mô hình quản lý lan rộng không có ranh giới, không chỉ gây ra gánh nặng cho doanh nghiệp mà còn làm tăng rào cản cho việc tìm kiếm việc làm. Nếu không được kiểm soát, quyền lực quản lý nghề nghiệp có thể lan rộng vô tận và có thể sinh ra tham nhũng.
Chức năng quản lý nghề nghiệp, được phát triển từ nền kinh tế kế hoạch, đã đóng vai trò huấn luyện viên và trọng tài trong mọi khía cạnh của xã hội. Mô hình quản lý này trở thành gánh nặng cho doanh nghiệp và cản trở sự phát triển của nhân tài, đồng thời cũng tăng thêm gánh nặng cho người tìm việc.
Năm 2013 đến 2017, Quốc hội đã phê duyệt việc bãi bỏ 434 loại chứng chỉ nghề nghiệp do bộ ngành cấp (chiếm khoảng 70%), trong đó có 154 loại chứng chỉ chuyên môn và 280 loại chứng chỉ kỹ năng. Điều này đã giảm bớt rào cản cho việc tìm kiếm việc làm và giảm nhẹ gánh nặng cho các nhân tài và người sử dụng lao động.
Sau khi được thu gọn, “Danh mục chứng chỉ nghề nghiệp quốc gia” vẫn còn 72 loại lớn, và dưới mỗi loại lớn có rất nhiều loại nhỏ, không thể đếm được số lượng chứng chỉ nghề nghiệp ở cấp tỉnh, thành phố và huyện. Ý tưởng cũ về quản lý chứng chỉ nghề nghiệp vẫn chưa thay đổi căn bản.
Nhiều loại chứng chỉ nghề nghiệp trong danh mục hiện tại đã lỗi thời so với thực tế. Ví dụ, “Chứng chỉ nghề nghiệp của nhân viên phát thanh truyền hình và người dẫn chương trình” là một loại chứng chỉ bắt buộc. Các tổ chức phát thanh truyền hình chính thức, đặc biệt là các tổ chức trong hệ thống, có yêu cầu về chứng chỉ nghề nghiệp rất nghiêm ngặt, nên cơ chế tiếp cận của nhà nước hoàn toàn thừa thãi. Hiện nay, mạng xã hội phát triển mạnh mẽ, những khả năng chuyên môn không còn được coi trọng, những người nổi tiếng trên mạng xã hội dựa vào sức hấp dẫn cá nhân và tài năng sáng tạo của họ.
Ví dụ khác, “Chứng chỉ nghề nghiệp của nhân viên chăm sóc sức khỏe mẹ và bé” cũng là một loại chứng chỉ bắt buộc. Dịch vụ chăm sóc sức khỏe mẹ và bé mang tính thị trường và cá nhân hóa cao, kỹ năng và kinh nghiệm chuyên môn có thể được đánh giá bởi công ty và khách hàng, cuối cùng được xác định thông qua lựa chọn của khách hàng và mức lương khác nhau để đánh giá trình độ và kỹ năng nghề nghiệp. Khách hàng không quan tâm bạn có chứng chỉ hay không.