Chủ nghĩa cá nhân và nỗi sợ hãi của người Mỹ
Chủ nghĩa cá nhân và nỗi sợ hãi của người Mỹ
Một trong những nỗi sợ hãi đặc biệt của người Mỹ là sự xâm phạm của chính phủ trung ương đối với quyền tự trị địa phương và quyền cá nhân. Ý tưởng lập quốc không phải để tạo ra một quốc gia mạnh mẽ, mà là để bảo vệ lãnh thổ tư nhân và quyền cá nhân.
Đất nước này thực sự là một thí nghiệm độc đáo: liệu một nhóm người đa sắc tộc, đa văn hóa, chống lại chế độ tập quyền có thể tạo thành một quốc gia, thậm chí hình thành một dân tộc? Độc lập Palace, nằm ở trung tâm Philadelphia, là nơi đặt nền tảng cho chính phủ liên bang đầu tiên của Mỹ.
Những gì Mỹ thừa kế từ đế chế Anh bao gồm hai thứ: ý thức về lãnh thổ và sự không tin tưởng vào hoàng gia và chính phủ. Cho đến thời Tổng thống thứ bảy Andrew Jackson, chỉ một phần mười dân số sống trong các thành phố, và Mỹ vẫn là một quốc gia nông thôn phân tán.
Tôi cảm thấy rằng Mỹ thực sự tồn tại trong các thị trấn và ngoại ô. Nông thôn phân tán buộc mọi người phải dựa vào chính mình để giải quyết mọi vấn đề sinh kế, và sự phụ thuộc duy nhất vào chính phủ tập quyền là nhu cầu vay ngân hàng. Điều này cũng là nguyên nhân khiến nhiều người Mỹ không thích ngân hàng – họ càng phụ thuộc, họ càng căm ghét.
Giải thích viên tại Độc lập Palace cầm bản nghị quyết đầu tiên của cuộc họp lập hiến.
Nỗi sợ hãi của người Mỹ đối với chế độ tập quyền bắt đầu từ Tổng thống thứ hai Thomas Jefferson và kéo dài đến Tổng thống thứ bảy Andrew Jackson. Jackson, người đầu tiên đến từ một bang không thuộc vùng Đông Bắc, căm ghét chế độ tập quyền đến mức run rẩy khi nghe đến từ “trung ương”. Ông đã bác bỏ hoàn toàn ý tưởng về ngân hàng trung ương.
Alexander Hamilton đã thành lập Ngân hàng Quốc gia đầu tiên như một ngân hàng trung ương, sau đó bị Jefferson bãi bỏ. Sau đó, Ngân hàng Quốc gia thứ hai được thành lập nhưng cũng bị Jackson bãi bỏ. Từ đó đến năm 1913, Mỹ không có ngân hàng trung ương, ngành tài chính và ngân hàng trở nên rời rạc, dẫn đến nhiều khủng hoảng tài chính.
Ngân hàng Quốc gia cũ.
Ngân hàng trung ương là sản phẩm của chế độ quân chủ – mục đích ban đầu của chúng thường là để làm giàu cho hoàng gia. Do đó, không có gì lạ khi người Mỹ căm ghét chính phủ trung ương.
Đến cuối thế kỷ 19, Mỹ đã trở thành cường quốc công nghiệp thực tế, nhưng lại rất lạc hậu về mặt tài chính. Có hàng nghìn loại tiền tệ khác nhau trong nước, mỗi bang quản lý ngân hàng riêng của mình, gây khó khăn trong việc giao tiếp và phối hợp. Đồng đô la chỉ là một loại tiền tệ hạng hai trên trường quốc tế, thậm chí còn kém hơn đồng Áo Schilling và Ý Lira.
Do không có quản lý thống nhất, từ thời Lincoln đến cuối thế kỷ 19, thị trường tiền tệ Mỹ luôn trong tình trạng thắt chặt – cung tiền luôn thiếu hụt. Một phần do ai cũng có thể phát hành tiền, phần khác do nền kinh tế bán vật chất không có khả năng lạm phát. Ngành ngân hàng Mỹ luôn sử dụng lượng kim loại để định giá tiền tệ, vì vậy tiền tệ luôn không đáp ứng đủ nhu cầu trao đổi thực tế.
Nửa cuối thế kỷ 19, giá cả ở Mỹ luôn giảm. Tình hình thắt chặt này vẫn thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa của Mỹ, cho đến khi nền kinh tế Mỹ chiếm 40% GDP toàn cầu, trở thành cường quốc số một, nhưng ngành tài chính vẫn rất lạc hậu.
Không chụp được ảnh Ngân hàng Quốc gia đầu tiên, nhưng nó nằm ngay phía sau góc chụp.
Đặc biệt là ngành ngân hàng Mỹ luôn tách biệt khỏi thị trường hàng hóa và tiền tệ thực tế. Ngân hàng Wall Street không quan tâm đến nhu cầu phát triển nông nghiệp của miền Trung Tây và nhu cầu của người dân bình thường, họ chỉ quan tâm đến nhu cầu của các công ty đặt trụ sở tại New York và Philadelphia. Họ quan tâm hơn đến việc bán cổ phiếu, trái phiếu và giao dịch trái phiếu chính phủ – trước khi phục vụ nền kinh tế thực sự, họ đã mở đường cho sự phát triển của ngân hàng đầu tư.
Địa điểm chính phủ liên bang cũ tại Wall Street.
Có những tiếng nói kêu gọi cải cách ngành ngân hàng, thành lập ngân hàng trung ương để tăng cường quyền tự chủ tài chính, nhưng bị truyền thống chính trị phản đối chế độ tập quyền coi thường. Vì vậy, cải cách ngành ngân hàng thực sự bắt nguồn từ sự thay đổi và đổi mới trong hệ thống chính trị.
Từ cuối thế kỷ 19 đến năm 1913 khi Liên bang Dự trữ được thành lập, Bộ Tài chính đóng vai trò như ngân hàng trung ương. Lehman Gage, người theo dõi Hamilton, đã quyết định độc lập, biến quỹ dự trữ dồi dào do thu hoạch liên tục và thuế tăng lên thành kho dự trữ của ngân hàng trung ương, cho vay trực tiếp cho các ngân hàng.
Trước khi Liên bang Dự trữ được thành lập, hầu như mỗi hai đến ba năm lại xảy ra một cuộc khủng hoảng thanh khoản, lớn nhất là vào năm 1907 do Ngân hàng Anh tăng lãi suất và thắt chặt tín dụng. Ngân hàng và môi giới trên Wall Street gần như bị phá sản, đây là lần cứu trợ đã tạo nên vị thế thần thánh của Morgan.
Ở đầu thế kỷ 20, sau cuộc khủng hoảng năm 1907, hầu hết mọi người đều nhận ra rằng hệ thống ngân hàng phân tán hiện tại không thể hỗ trợ vị thế cường quốc công nghiệp của Mỹ. Cuối cùng, họ đã khởi động công việc lập pháp và thiết kế ngân hàng trung ương.
Rất thú vị, người lãnh đạo là Thượng nghị sĩ Aldrich, một nhân vật đáng kính trọng và có sức ảnh hưởng trong Nhà Trắng. Sự đáng kính và vị trí lãnh đạo của ông lại đến từ niềm tin vào chủ nghĩa tự do – ông từng kịch liệt phản đối ý tưởng ngân hàng trung ương, đặc biệt là ngân hàng Wall Street. Nhưng sau khi được bạn bè trong ngành tài chính thuyết phục, nhất là sau một chuyến thăm châu Âu chuyên sâu về vấn đề kinh tế, ông đã nhận ra rằng cần có một ngân hàng trung ương để tạo ra thị trường tài chính có trật tự.
Vì vậy, ông trở thành người thúc đẩy chính sách ngân hàng trung ương quan trọng, nhưng vận may trớ trêu là khi ông cố gắng thúc đẩy chính sách này, ông bỗng nhiên trở nên cô đơn. Hầu hết các chính khách ủng hộ tự do đã rời xa ông, ông từ vị trí đáng kính trở thành người đi tìm sự giúp đỡ ở khắp nơi.
Aldrich đã đọc hầu hết các sách về ngành ngân hàng thời kỳ đó và thành lập đội ngũ thiết kế riêng của mình, bao gồm những người nổi tiếng như Davidson, Vanderlip và Warburg, những người đứng đầu ba ngân hàng lớn nhất thời đó và không phải là người của Wall Street. Họ âm mưu và thiết kế trên chuyến tàu riêng của Aldrich ở ga Pennsylvania – tôi đã đến thăm ga này, nằm cạnh Tháp Empire, qua sông Hudson, ga này đơn giản và mộc mạc, do nằm ở trung tâm Manhattan nên có lưu lượng người rất lớn.
Theo tôi, âm mưu và thiết kế diễn ra tại ga Pennsylvania có cách thức, tầm ảnh hưởng và tác động giống như cuộc họp quyết định độc lập ở Philadelphia hai trăm năm trước. Cả hai đều diễn ra bí mật, đều là sự mưu mô của tầng lớp tinh hoa, đều trải qua nhiều cuộc tranh cãi, thỏa thuận và thiết kế tinh vi, đều là kết quả của những cuộc tranh luận gay gắt giữa những người thông minh nhất.
Chùa Tam Tự ở cuối phố Wall Street, nằm ở trung tâm, bên cạnh nghĩa trang đầy rêu và dây leo.
Sau quá trình thiết kế, cuộc tranh luận lớn nhất là về định nghĩa dự trữ. Ngân hàng thông thường gửi dự trữ vào ngân hàng trung ương không có vấn đề, nhưng nếu một ngân hàng vay tiền để mua giấy tờ của ngân hàng trung ương, những giấy tờ này có thể được coi là dự trữ không? Warburg cho rằng có thể, Aldrich thì không, vì ông lo ngại điều này sẽ dẫn đến lạm phát.
Để tăng tính linh hoạt trong việc phát hành tiền tệ, các ngân hàng có thể thông qua cơ chế chiết khấu để hoán đổi dự trữ từ các chi nhánh khác để tăng nguồn cung tiền tệ.
Thiết kế thông minh nhất trong toàn bộ kế hoạch là cấu trúc ngân hàng trung ương – liên bang, tức là một hiệp hội dự trữ do mười mấy ngân hàng lớn nhất thành lập, hiệp hội này bầu cử đại diện để quản lý, đồng thời, hiệp hội này cũng thành lập các chi nhánh địa phương trên toàn quốc để giám sát các ngân hàng trong khu vực.
Quyết định được đưa ra bằng cách bỏ phiếu, một ngân hàng chỉ có một phiếu bầu. Thực tế, điều này cũng phù hợp với thực tế chính trị Mỹ, mô phỏng cấu trúc liên bang hiện tại. Đề xuất này đến từ nhà ngân hàng Đức Warburg.
Để tránh mọi nghi ngờ về độc quyền và độc tài, cũng như sự mưu đồ với chính phủ, hiệp hội dự trữ được tạo ra như một tổ chức của các ngân hàng, trở thành một ngân hàng duy nhất với mười mấy chi nhánh, do các thành viên ngân hàng cùng quyết định, không tuân theo yêu cầu của chính phủ.
Sau cùng, dưới sự kiên trì của Warburg, Aldrich đã nhượng bộ, cho phép một số quan chức tham gia hội đồng quản trị để tiếp thu lời khuyên từ chính phủ. Bản chất của kế hoạch này là thông qua cấu trúc liên bang, tập trung dự trữ của tất cả các ngân hàng, sau đó khởi xướng các giấy tờ liên kết như một loại tiền tệ thống nhất mới.
Hiệp hội dự trữ thực chất là một ngân hàng của các ngân hàng, xử lý các giao dịch thương mại, không liên quan đến chính trị hay độc quyền.
Sàn giao dịch chứng khoán New York đang được tu sửa.
Quá trình này cực kỳ phức tạp và kéo dài, gây ra tranh cãi giữa các đảng phái, giữa các chuyên gia, quan trọng nhất là tranh cãi về việc bảo vệ tự do và chống lại chế độ tập quyền. Sự phức tạp của Đạo luật Liên bang Dự trữ còn do nó trùng với cuộc bầu cử tổng thống, khi người ủng hộ ngân hàng trung ương là Taft rời nhiệm, người phản đối là Wilson lên nắm quyền, đòi hỏi một quá trình thuyết phục mới.
Tranh cãi kéo dài hơn ba năm, dần chuyển từ kế hoạch Aldrich sang kế hoạch Glass, nhiều chính khách tham gia vào lực lượng thúc đẩy, và kế hoạch cũng được chỉnh sửa nhiều lần, tăng chức năng của hiệp hội dự trữ và giảm vai trò lãnh đạo trung ương.
Woodrow Wilson, người trước đây phản đối quản lý ngân hàng tập trung, khi trở thành tổng thống vẫn giữ nguyên nguyên tắc quản lý phân tán, nhưng chấp nhận quản lý của chính phủ đối với hiệp hội dự trữ. Ông đã chỉnh sửa kế hoạch, biến giấy tờ của hiệp hội dự trữ từ giấy tờ thế chấp dự trữ thành giấy tờ có bảo lãnh của chính phủ – tiền thật.
Sau đó, còn nhiều cuộc tranh luận và chỉnh sửa về việc xác định lãi suất, quyền hạn của ngân hàng liên bang và tiểu bang, mối quan hệ giữa ngân hàng lớn và nhỏ.
Trong quá trình tranh luận, Wilson càng nhận ra rằng việc lập pháp rất khó khăn – ngay cả mục tiêu ban đầu của việc thành lập hiệp hội dự trữ – tạo ra một cơ chế tiền tệ linh hoạt – cũng gặp vấn đề – không có định nghĩa rõ ràng về tiền tệ. Trước đây, không ai giải thích rõ ràng về tiền tệ, ở miền Tây, các phiếu mua hàng của doanh nghiệp cũng có thể được dùng làm chứng từ trao đổi, miễn là người dân hoặc ngân hàng chấp nhận.
Liệu khoản vay của ngân hàng có tính không? Vay có thể được dùng để thế chấp thành giấy tờ, điều này có tính không? Giấy tờ nhận nợ hàng hóa chắc chắn có tính. Kết quả là, ủy ban lập pháp phát hiện ra rằng họ không thể định nghĩa chính xác, có thể chỉ định việc này cho hiệp hội dự trữ quyết định.
Đây cũng là quá trình giao tranh và đàm phán, thể hiện nguyên tắc, cạnh tranh và công bằng trong cơ chế ra quyết định chính trị của Mỹ – không ai có thể quyết định một cách tuyệt đối, mọi bên đều có cơ hội thể hiện ý kiến của mình, sử dụng truyền thông, các cuộc họp công cộng và diễn thuyết công khai để thu hút sự ủng hộ.
Những giá trị chính trị của Mỹ là sự tự do tuyệt đối và quyền cá nhân tuyệt đối, họ sẵn sàng hy sinh hiệu quả để cân nhắc kỹ lưỡng mọi lợi ích và hại của mỗi dự luật. Mọi chính sách hoặc dự luật đều được hình thành trong cạnh tranh dữ dội.
Điều này cũng khiến các dự luật quan trọng được thảo luận bởi nhiều tầng lớp khác nhau, và thông qua cuộc tranh luận và báo cáo, người dân hiểu rõ hơn về mục đích, bối cảnh và ảnh hưởng của mỗi dự luật.
Khi dự luật về Hiệp hội Dự trữ Liên bang cuối cùng được thông qua dưới sự thúc đẩy của Tổng thống Wilson, vẫn có hơn một nửa nghị sĩ không hiểu rõ cơ chế và ý nghĩa của nó. Người viết dự luật từ Aldrich chuyển thành Carter Glass, một thượng nghị sĩ cũng không hiểu rõ về mô hình hoạt động của ngân hàng Mỹ như Aldrich. Nhưng Glass vẫn tiếp tục nghiên cứu về hệ thống ngân hàng, và cuối cùng ông cũng đưa ra Đạo luật Glass-Steagall, được công nhận là cha đẻ của Đạo luật Dự trữ Liên bang.
Dù từ góc độ chuyên môn hay lịch sử tài chính, đây đều là một cuốn sách rất đáng đọc.
Tóm tắt 5 từ khóa:
- Ngân hàng trung ương
- Chủ nghĩa tự do
- Tự trị địa phương
- Độc lập Palace
- Hệ thống tài chính Mỹ