Mở rộng nhu cầu nội địa: Đầu tư hay Tiêu dùng?
Mở rộng nhu cầu nội địa: Đầu tư hay Tiêu dùng?
Nhiều người đang tranh luận về việc liệu mở rộng nhu cầu nội địa nên dựa vào đầu tư hay tiêu dùng. Tuy nhiên, câu hỏi này có thể gây hiểu lầm vì không tồn tại nền kinh tế nào chỉ dựa vào đầu tư mà không có tiêu dùng hoặc ngược lại.
Tháng 9 năm 2023, cuộc họp của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đưa ra những đánh giá toàn diện và khách quan về tình hình kinh tế hiện tại, đồng thời đưa ra một loạt quyết định quan trọng nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội cả năm.
Tình hình kinh tế chung được mô tả là “ổn định tổng thể, tiến bộ vững chắc” với những yếu tố tích cực như cơ bản, thị trường rộng lớn, sức mạnh kinh tế linh hoạt và tiềm năng lớn. Tuy nhiên, cũng có một số vấn đề mới xuất hiện. Để đối mặt với những khó khăn này, cần nhìn nhận tình hình một cách đầy đủ, khách quan và bình tĩnh, đồng thời xác định rõ khó khăn và giữ vững niềm tin.
Cần làm rõ nguyên nhân thực sự dẫn đến sự thiếu hụt tổng cầu. Trong hai năm qua, mặc dù quá trình hồi phục kinh tế sau dịch bệnh có nhiều thăng trầm, nhưng nhìn chung vẫn cho thấy xu hướng hồi phục tích cực. GDP tăng trưởng 5,2% trong năm 2023 và 5% trong nửa đầu năm 2024, đứng đầu trong số các nền kinh tế lớn trên thế giới. Tuy nhiên, kinh tế vĩ mô phải đối mặt với áp lực giảm nhu cầu tổng thể ngày càng tăng, chỉ số GDP giảm liên tục trong bảy quý gần đây.
Từ dữ liệu tháng 8, các chỉ số quan trọng như tiêu dùng, việc làm, tài chính công đều cho thấy dấu hiệu chậm lại hoặc thu hẹp. Chỉ số quản lý nhà sản xuất (PMI) của Trung Quốc trong tháng 9 là 49,8%, tăng 0,7 điểm phần trăm so với tháng trước, cho thấy sự cải thiện trong môi trường kinh doanh sản xuất, nhưng vẫn thấp hơn mức cân bằng.
Sự thiếu hụt tổng cầu là một sự thật không thể chối cãi, và việc thực hiện chính sách kích thích khi tổng cầu thiếu hụt là điều hiển nhiên. Tuy nhiên, cần phân biệt giữa vấn đề do thiếu hụt tổng cầu gây ra và nguyên nhân thực sự dẫn đến thiếu hụt tổng cầu. Nếu không làm rõ nguyên nhân thực sự, thì việc thực hiện chính sách kích thích cũng có thể không hiệu quả.
Có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Một số người cho rằng cần tăng cường đầu tư, vì tăng trưởng kinh tế trước đây chủ yếu dựa vào đầu tư cao. Tuy nhiên, thực tế là tỷ lệ đầu tư so với thu nhập bình quân đầu người hiện tại đã cao và không còn nhiều không gian hiệu quả để đầu tư.
Một quan điểm phổ biến hơn là mở rộng tiêu dùng, cho rằng thiếu hụt tổng cầu là do tiêu dùng không đủ. Việc phát tiền mặt đại trà, như “tiền trực thăng”, không phải là giải pháp tốt nhất vì nó không giải quyết được các vấn đề cụ thể mà nhóm thu nhập thấp đang đối mặt, như nhà ở, giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội và hưu trí.
Mở rộng nhu cầu nội địa dựa vào đầu tư hay tiêu dùng không phải là câu hỏi đúng đắn. Thực tế là không có nền kinh tế nào chỉ dựa vào đầu tư mà không có tiêu dùng hoặc ngược lại. Câu hỏi đúng đắn là trong bối cảnh thu nhập bình quân đầu người hiện tại, cần tìm hiểu rõ nguyên nhân và cách thức mở rộng nhu cầu nội địa một cách thực chất.
Hai khái niệm quan trọng trong quá trình tăng trưởng kinh tế Trung Quốc
Trải qua hơn 30 năm tăng trưởng nhanh chóng từ quá trình cải cách và mở cửa, hai khái niệm quan trọng trong kinh tế Trung Quốc là đỉnh nhu cầu lịch sử và cấu trúc nhu cầu.
Đỉnh nhu cầu lịch sử là điểm hoặc khoảng thời gian khi nhu cầu tăng trưởng nhanh nhất hoặc nhu cầu lớn nhất trong quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa. Khi đạt đến điểm này, tốc độ tăng trưởng bắt đầu giảm.
Cấu trúc nhu cầu phản ánh cấu trúc thu nhập, tức là phân phối giữa nhóm thu nhập trung bình và cao và nhóm thu nhập thấp. Có hai loại cấu trúc: một là tỷ lệ nhóm thu nhập thấp cao và nhóm thu nhập trung bình và cao thấp; hai là tỷ lệ nhóm thu nhập trung bình cao và nhóm thu nhập thấp thấp, tức là cấu trúc “dầu oliu”.
Đỉnh nhu cầu lịch sử xác định điểm chuyển đổi từ tăng trưởng nhanh sang tăng trưởng trung bình, trong khi cấu trúc nhu cầu xác định thời gian kéo dài của tăng trưởng trung bình sau điểm chuyển đổi.
Trước điểm chuyển đổi, hạn chế chính là nguồn cung không đủ, dễ dẫn đến lạm phát. Sau điểm chuyển đổi, hạn chế chính là nhu cầu không đủ, giảm nhu cầu là nguyên nhân khiến tốc độ tăng trưởng chậm lại.
Từ kinh nghiệm quốc tế, các nền kinh tế duy trì tăng trưởng trung bình trong thời gian dài thường có hệ số Gini thấp, dưới 0,4, thu nhập chênh lệch nhỏ, và có một nhóm thu nhập trung bình lớn. Nhóm thu nhập trung bình này có thể tạo ra nhu cầu lớn và kéo dài, từ đó hỗ trợ tăng trưởng trung bình kéo dài.
Nếu thu nhập chênh lệch lớn, nhóm thu nhập trung bình nhỏ, khi tiềm năng nhu cầu của nhóm này được tận dụng hết, dễ dẫn đến sự giảm tốc rõ ràng của tăng trưởng, dẫn đến tình trạng tăng trưởng thấp hoặc thậm chí đình trệ. Đây là giai đoạn quan trọng khi chuyển từ giai đoạn thu nhập trung bình sang giai đoạn thu nhập cao.
Tình hình hiện tại của Trung Quốc là nhóm thu nhập trung bình vượt quá 400 triệu người. Hệ số Gini nhiều năm qua luôn cao hơn 0,4, có nghiên cứu cho rằng ở mức 0,45 hoặc cao hơn. Tình trạng thiếu hụt nhu cầu hiện tại có mối liên hệ trực tiếp với cấu trúc nhu cầu này.
Tăng tiêu dùng hiệu quả
Để tăng tiêu dùng hiệu quả, cần phân biệt giữa tiêu dùng sinh tồn và tiêu dùng phát triển. Bao gồm cả nhóm thu nhập thấp, tiêu dùng chủ yếu là ăn mặc và các nhu cầu cơ bản hàng ngày đã ổn định, tức là vấn đề no đủ cơ bản đã được giải quyết. Tiêu dùng sinh tồn chủ yếu là tiêu dùng cá nhân.
Tăng trưởng tiêu dùng chủ yếu được thúc đẩy bởi giáo dục, y tế, nhà ở an toàn, bảo hiểm xã hội, văn hóa, thể thao, giải trí, dịch vụ tài chính, giao thông vận tải và truyền thông. Tiêu dùng phát triển chủ yếu được thực hiện thông qua tiêu dùng tập thể hoặc dịch vụ công cộng, ví dụ như bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội được thực hiện thông qua hợp tác, giáo dục trường học là hình thức học tập tập thể, và có liên quan trực tiếp đến mức độ dịch vụ công cộng cơ bản bình đẳng của chính phủ. Việc mở rộng tiêu dùng phát triển không chỉ phụ thuộc vào nỗ lực cá nhân, mà còn cần sự hỗ trợ của chính phủ thông qua việc xây dựng cơ sở hạ tầng, thiết lập hệ thống và cung cấp vốn.
Mức độ bình đẳng của dịch vụ công cộng cơ bản thấp, trực tiếp kìm hãm sự tăng trưởng của tiêu dùng phát triển. Hiện tại, cư dân thành phố than phiền nhiều nhất về áp lực giáo dục, y tế và nhà ở. Gần 300 triệu lao động di cư và gần 200 triệu lao động di cư từ nông thôn ra thành phố còn nợ nần về dịch vụ công cộng cơ bản. Vì vậy, việc mở rộng tiêu dùng cần xác định rõ các điểm yếu: một là tiêu dùng phát triển dựa trên dịch vụ công cộng cơ bản, và hai là nhóm thu nhập thấp, đặc biệt là lao động di cư.
Nhu cầu về dịch vụ công cộng cơ bản thấp kém liên quan trực tiếp đến mức độ đô thị hóa. Hiệu ứng tập trung đô thị giảm chi phí cung cấp dịch vụ công cộng. Ở vùng nông thôn truyền thống, chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại và dịch vụ công cộng cơ bản rất cao, khó tiếp cận. So với mức thu nhập bình quân đầu người tương đương của các nền kinh tế phát triển, tỷ lệ đô thị hóa của Trung Quốc thấp hơn, tỷ lệ đô thị hóa theo thường trú là 66%, tỷ lệ đô thị hóa theo hộ khẩu là 48,3%, trong khi các nền kinh tế phát triển thường cao hơn 70%, có một số vượt quá 80%.
Trước đây, chúng ta đã chú trọng đến quy mô kinh tế và hiệu ứng tập trung trong sản xuất, nhưng bỏ qua hiệu ứng quy mô và tập trung trong tiêu dùng, đặc biệt là dịch vụ tiêu dùng. Nếu không có mức độ đô thị hóa nhất định, các dịch vụ công cộng cơ bản như giáo dục, y tế, nhà ở an toàn, bảo hiểm xã hội, hưu trí, văn hóa giải trí sẽ khó đạt được mức độ cao.
Không thể đơn giản sao chép chính sách nới lỏng định lượng của các nước phát triển. Trải qua hơn 30 năm tăng trưởng nhanh và gần 10 năm tăng trưởng trung bình, tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc đều cao hơn so với các nước phát triển cùng kỳ. Động lực tăng trưởng chủ yếu đến từ tiềm năng đuổi kịp của Trung Quốc như một quốc gia mới nổi. Hiện nay, GDP bình quân đầu người của Trung Quốc là 14.000 USD, đến năm 2035, Trung Quốc sẽ trở thành một quốc gia có thu nhập trung bình, GDP bình quân đầu người sẽ đạt 35.000 – 40.000 USD, còn ít nhất 20.000 USD tiềm năng đuổi kịp, chủ yếu là sự phát triển của dịch vụ do sự nâng cấp cấu trúc tiêu dùng, sự ổn định và nâng cấp của ngành sản xuất và nông nghiệp.
Đồng thời, chúng ta còn có cơ hội tăng trưởng từ cách mạng khoa học và công nghệ mới, như công nghệ số và chuyển đổi xanh, cũng có thể coi là một loại tiềm năng cấu trúc mới. Tiềm năng đuổi kịp và tiềm năng số-xanh không phải là hai đường đua riêng biệt, mà là hòa quyện vào nhau. Tiềm năng đuổi kịp truyền thống, cộng thêm công nghệ số và công nghệ xanh mới, vẫn có thể hỗ trợ Trung Quốc duy trì tăng trưởng trung bình 5-10 năm.
Trong giai đoạn này, vai trò của chính sách vĩ mô là duy trì sự ổn định và cân bằng trong quá trình vận hành kinh tế. Nói không chính xác, nếu tốc độ tăng trưởng tiềm năng hiện tại là 5%, chính sách vĩ mô có thể ảnh hưởng khoảng 1%, phần còn lại 4% phụ thuộc vào tiềm năng cấu trúc, và mức độ giải phóng tiềm năng cấu trúc phụ thuộc vào môi trường thể chế chính sách thích hợp. Cải cách nhằm tạo ra điều kiện môi trường này.
Điều cần nói rõ là sự khác biệt giữa Trung Quốc và các nền kinh tế phát triển trong vai trò của chính sách vĩ mô. Các nền kinh tế phát triển là nền kinh tế đã trưởng thành, ở giai đoạn tăng trưởng thấp, là sự tăng trưởng duy trì và khấu hao, tiềm năng tăng trưởng mới ít. Đối với nền kinh tế này, chính sách vĩ mô cơ bản quyết định xu hướng và bức tranh lớn của tăng trưởng. Nhưng Trung Quốc không giống vậy, hiện đang ở cuối giai đoạn tăng trưởng trung bình, dự kiến còn 5-10 năm tăng trưởng trung bình, tiềm năng tăng trưởng khoảng 5%, chính sách vĩ mô chủ yếu đóng vai trò ổn định và cân bằng. Khi Trung Quốc chuyển từ hạn chế nguồn cung sang hạn chế nhu cầu, cải cách giải phóng tiềm năng cấu trúc tương ứng chuyển sang quản lý nhu cầu. Trong khi tiếp tục thúc đẩy cải cách cấu trúc nguồn cung cần thiết, trọng tâm sẽ chuyển sang quản lý nhu cầu.
Kế hoạch kích thích và cải cách để ổn định tăng trưởng kinh tế
Cuộc họp của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ ra rằng cần thực hiện hiệu quả các chính sách hiện có và đưa ra các chính sách mới. Kết hợp với tình hình kinh tế hiện tại, đề xuất đưa ra một kế hoạch kích thích và cải cách toàn diện để dẫn dắt kinh tế trở lại quỹ đạo tăng trưởng mở rộng.
Thực hiện các biện pháp cải cách về hợp nhất nông thôn và đô thị, chủ yếu dựa vào chính sách tài khóa, kết hợp chặt chẽ với quản lý nhu cầu, tạo ra hiệu ứng tổng hợp mở rộng tiêu dùng, ổn định tăng trưởng và kiểm soát rủi ro. Bao gồm một kế hoạch kích thích, hai điểm đột phá và một mục tiêu quan trọng.
Chủ yếu huy động vốn thông qua trái phiếu đặc biệt dài hạn, trong một đến hai năm, với quy mô đầu tư lớn để bù đắp các thiếu hụt về dịch vụ công cộng cơ bản. Trước đây, trọng tâm là đầu tư vốn vật chất, hiện tại, trọng tâm là đầu tư vốn con người. Kế hoạch kích thích này chủ yếu thúc đẩy tiêu dùng ở góc độ vi mô, đồng thời cũng thúc đẩy đầu tư vào bất động sản, cơ sở hạ tầng và dịch vụ ở một mức độ nhất định, mở rộng nhu cầu nội địa một cách thực chất. Trên quy mô vĩ mô, có thể nâng cao tổng nhu cầu, thu hẹp khoảng cách với tổng cung, và dẫn dắt chỉ số GDP tăng trưởng dương.
Về hai điểm đột phá, đầu tiên là tăng cường đáng kể mức độ dịch vụ công cộng cơ bản cho người dân mới, chủ yếu là người di cư từ nông thôn lên thành phố, trong lĩnh vực nhà ở an toàn, giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội và hưu trí. Trọng tâm ngắn hạn là mua lại nhà ở bị ế ẩm để chuyển thành nhà ở an toàn, cung cấp cho người dân mới.
Thực hiện tinh thần của Đại hội lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 20, “thực hiện hệ thống đăng ký hộ khẩu tại nơi cư trú để cung cấp dịch vụ công cộng cơ bản, thúc đẩy người lao động nông thôn đủ điều kiện được hưởng quyền lợi tương tự như người dân nơi đăng ký hộ khẩu, như bảo hiểm xã hội, nhà ở an toàn và giáo dục cho con cái di cư”. Người lao động nông thôn chuyển từ làm việc ở thành phố thành đoàn tụ gia đình, an cư lạc nghiệp. Việc tăng cung nhà ở an toàn có thể mở rộng nhu cầu thực sự về nhà ở, việc cải thiện nhà ở có thể thúc đẩy tiêu thụ đồ nội thất, điện tử gia dụng, việc đoàn tụ gia đình có thể thúc đẩy nhu cầu về giáo dục, y tế và hưu trí, hoàn thiện bảo hiểm xã hội có thể giảm lo lắng của người dân, giảm tiết kiệm phòng ngừa.
Thứ hai là đẩy nhanh xây dựng các thị trấn nhỏ trong phạm vi khu vực đô thị, dẫn dắt làn sóng đô thị hóa thứ hai của Trung Quốc, tạo ra hệ thống thành phố hiện đại, chất lượng cao và bền vững dựa trên sự phát triển hợp nhất nông thôn và đô thị. Từ kinh nghiệm quốc tế, các thành phố hạt nhân trong khu vực đô thị và vùng đô thị thường chiếm khoảng 30% dân số thành phố. Các thị trấn nhỏ ngoài các thành phố hạt nhân còn có không gian phát triển lớn, có thể chứa hơn 60% dân số thành phố, bao gồm cả việc giải tỏa dân cư từ các thành phố cũ và người di cư từ nông thôn và các thành phố khác, phù hợp với sự tập trung của sản xuất và dịch vụ trung và thấp. Trong phạm vi này, bất động sản và cơ sở hạ tầng vẫn có không gian phát triển nhất định.
Thực hiện tinh thần của Đại hội lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 20, “tăng cường mức độ hợp nhất quy hoạch, xây dựng, quản lý giữa nông thôn và đô thị, thúc đẩy trao đổi bình đẳng và luân chuyển hai chiều giữa các yếu tố nông thôn và đô thị, thu hẹp khoảng cách nông thôn và đô thị, thúc đẩy sự phồn thịnh chung của nông thôn và đô thị” “cho phép người dân nông thôn hợp pháp sở hữu nhà ở thông qua việc cho thuê, góp vốn, hợp tác” “tiến hành cải cách từ từ việc chuyển nhượng đất canh tác kinh doanh tập thể, hoàn thiện cơ chế phân phối thu nhập tăng thêm”. Trọng tâm là thúc đẩy luân chuyển hai chiều giữa các yếu tố con người, đất đai, vốn giữa nông thôn và đô thị, tối ưu hóa phân bổ và sử dụng các nguồn lực dựa trên thị trường, người dân nông thôn có thể di cư lên thành phố, người dân thành phố có thể di cư xuống nông thôn, tạo ra không gian lớn hơn cho việc khởi nghiệp, việc làm và sở hữu nhà ở cho người dân nông thôn và thành phố. Tiếp tục giải phóng tư tưởng, khám phá sáng tạo, kết hợp việc chuyển nhượng đất nông thôn và hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội nông thôn, đẩy nhanh cải cách đất đai nông thôn, đạt được việc tăng hiệu quả sử dụng đất, tăng thu nhập tài sản của nông dân, tăng cường khả năng bảo hiểm xã hội, cải thiện điều kiện sống của người dân nông thôn và thành phố, ổn định và nâng cấp ngành công nghiệp, nhiều mục tiêu một lúc.
Một mục tiêu quan trọng là nhân đôi quy mô nhóm thu nhập trung bình thông qua việc thực hiện kế hoạch phục hồi kinh tế này, từ 400 triệu người hiện tại lên 800-900 triệu người trong khoảng 10 năm. Đặt và thực hiện mục tiêu này có ý nghĩa cơ bản đối với việc kéo dài giai đoạn tăng trưởng trung bình, phá vỡ ảnh hưởng tiêu cực của hạn chế nhu cầu đối với tăng trưởng kinh tế.
Từ góc độ ngắn hạn, giúp nhanh chóng bù đắp thiếu hụt tổng cầu, dẫn dắt tăng trưởng kinh tế vào vòng tuần hoàn mở rộng, đồng thời sử dụng phương pháp “kích thích + cải cách” tạo ra điều kiện thuận lợi cho sự phát triển chất lượng cao của kinh tế-xã hội trong dài hạn.
Từ khóa:
- Mở rộng nhu cầu nội địa
- Đầu tư
- Tiêu dùng
- Chính sách kích thích
- Cải cách